Chúng ta
đang ở đầu thế kỷ XXI. Mai sau, dù có bao giờ, phần sưu tầm biên khảo nhỏ nhoi
này mong còn được đôi khi lần giở trước đèn, để may ra có người mở trang sách
cũ tìm hiểu về đất lề quê thói, thấy rõ ràng kho tàng văn học dân gian đặt nặng
giáo dục gia đình trên vai người mẹ. Những lời ru ca dao ạ ơi ời hà hơi văn hóa
mẹ vào tâm hồn trẻ từ lúc mở mắt chào đời cho đến khi chập chững lững thững
những trò chơi đi kèm đồng dao, để từ đó vững bước vào xã hội. Hát mà chơi. Hát
mà học. Hát chơi mà học thật. Học làm NGƯỜI.
Đồng dao
được truyền từ đời này tiếp đời nọ, vùng này qua vùng kia, có khi thay đổi, có
khi sai lạc, có khi thất truyền, và bị quên lãng. Tác giả hầu hết vô danh, hay
nói đúng hơn, chính dân gian là tác giả.
Dạy con
từ thuở lên ba, nhưng từ lúc lọt lòng mẹ qua ba tháng biết lẩy bẩy tháng biết
bò cho đến khi lổm ngổm tập ngồi bi bô tập nói lựng chựng bước đi, với Việt Nam
ta, tiếp nối lời mẹ ru, đồng dao giữ phần quan trọng trong giáo dục gia đình,
chuẩn bị cho trẻ đến trường với khoa sư phạm áp dụng phương pháp giúp trẻ con
vừa vui chơi giải trí vừa học hỏi, phát triển các khả năng cơ thể và mở mang
trí tuệ. Hát mà chơi. Hát mà học. Hát chơi mà học thật.
Thuở ban
đầu, đồng dao chỉ được truyền miệng, nhưng nhờ ngắn gọn đơn giản ba, bốn hoặc
năm chữ, có khi ngô nghê, nhưng vần điệu tiết tấu nhịp nhàng nên rất dễ hiểu dễ
nhớ. Về sau, rất nhiều bài đồng dao được đặt nhạc nên được phổ biến rộng rãi.
Trong hàng trăm bài đồng dao truyền miệng và hàng ngàn bản nhạc, chúng tôi chỉ
nêu một số bài đồng dao truyền miệng từ Bắc qua Trung vào Nam, còn nhớ hoặc tìm
tòi sưu tầm được, và đồng dao được phổ nhạc, cùng một số nhạc phụ lục. Chuyện
bổ túc theo đà tiếp nối rất dễ dàng thuận tiện.
Những
trò chơi đầu tiên chỉ có mẹ và con. Khi trẻ bớt ngủ ngày, tức vào khoảng một
tháng sau khi ra đời, trẻ bắt đầu biết nghe và nhìn. Bài học đầu tiên có thể
chỉ tập cho con theo dõi, nhận xét, ghi nhận. Mẹ chỉ cho con biết những phần
trên cơ thể, cả danh từ lẫn động từ tĩnh từ: mắt mở mắt nhắm, mắt đen mắt nâu,
miệng nói môi cười, răng trắng, tai nghe, tóc đen tóc trắng, tóc ngắn tóc dài,
tay nắm, chân đạp …
Tập tầm vông
Chị lấy chồng/ em ở góa/ chị ăn
cá/ em mút xương
Chị nằm giường/ em nằm đất/ chị
húp mật/ em liếm ve
Chị ăn chè/ em liếm bát/ chị coi
hát/ em vỗ tay
Chị ăn mày/ em xách bị/ chị làm
đĩ/ em thâu tiền
Chị đi thuyền/ em đi bộ/ chị kéo
gỗ/ em lợp nhà
Chị trồng cà/ em trồng bí/ chị
tuổi Tý/ em tuổi Thân
Chị tuổi Dần/ em tuổi Mẹo
Chị kéo kẹo/ em nấu đường/ chị
trồng thơm/ em trồng khóm
Chị đi xóm/ em coi nhà/ chị thờ
cha/ em nuôi mẹ
Chị trồng hẹ/ em trồng hành/ chị
để dành/ em ăn hết
Chị đánh chết/ em la làng/ chị đào
hang/ em chui tuốt …
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét